Thế đấy, đã vào hè, nhưng tôi chẳng thấy “cuộc sống vui tươi” tí nào! Tôi ngồi ườn ra ghế đá công viên – “ngồi ườn ra” không phải là một từ dùng sai chỗ, chẳng qua để dễ nghe một chút. Tôi ngồi trên ghế băng dài chiếm chỗ gần hết chiếc ghế, hai chân xoạc ra, hai tay duỗi dài trên thành ghế. Tôi hình dung nếu có ai đi qua hẳn là sẽ trố mắt nhìn rồi lắc đầu bỏ đi. Tôi không phải là một cảnh quan xinh đẹp đáng nhìn ở đây. Quần áo bẩn thỉu. Ba ngày chưa tắm giặt và dưới sức nóng, tôi đoán cái mùi từ người tôi bốc ra càng khó ngửi. Nhưng bạn nên ngửi mới đánh giá đúng, chứ nhìn thì vẫn chưa đủ. Tôi cầm chai rượu táo pha cồn và mỗi khi há miệng tôi lại trút cái thứ thuốc độc đáng nguyền rủa ấy vào miệng, một ít tràn qua môi vương vãi trên áo jacket – càng bốc mùi nhiều hơn.
Trời nóng bức không nên mặc nhiều quần áo, thế nhưng người người đi lại trên đường vẫn cứ diện vào sơ mi và áo khoác ngoài trước cái nóng mùa hè. Cũng nên thấy rằng một số người không ăn mặc như thế, hãy tưởng tượng nếu họ trông thấy những thứ trên người của tôi đang mặc chắc cũng lộn mửa. Cho dù giặt kỹ vẫn còn thấy kinh khủng, cái quần không vừa với một người có số đo lưng như tôi, cà vạt thắt lòng thòng như dây treo cổ. Một chiếc sơ mi cũ kỹ, chắc đã được mặc từ đời ông đời cha cũng nên. Không cần nói cũng biết là không có cổ áo. Còn chiếc áo jacket thì khỏi nói, không chỉ không hợp với chiếc quần đang mặc, mà còn sờn rách nhiều chỗ, mặc cho ánh nắng xuyên qua. Đôi giày há mỏm, một chiếc mất cả đế. Còn vớ thì tốt nhất đừng nên nhắc đến. Bẩn thỉu như tổ đĩa, cả hai đều như thế.
Sau nhiều ngày tìm kiếm Adrian, tôi trông như thế này đây.
Tuần rồi, cha anh ấy đến gặp tôi, một người đàn ông mập mạp, mặt đỏ gay, để ria mép, có hàm răng đen xỉn. Trông ông ấy giống như một kẻ uống quá nhiều rượu, hút quá nhiều thuốc lá – tất nhiên người ông ta bốc lên chẳng khác gì cái mùi tìm thấy trong chiếc gạt tàn. Ông ta khập khiểng đi vào văn phòng mé chân phải còn có thêm chiếc gậy chống thật to.
“Tôi đã được nghe nói về anh”, người đàn ông nói cộc lốc. Giọng nói hách dịch, thô lổ.
Tôi nhìn ông ta, chờ đợi ông nói tiếp. Ông ta có nói tên mình nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ gật đầu cho phải phép.
“Và tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông…”
“Ponting”, ông ta nói gọn lỏn làm như là tôi đã biết rõ cái tên ấy rồi.
Bỗng nhiên tôi nhớ ra, “Có phải ông Ponting ở hãng sơn Ponting?”
Người đàn ông gật đầu và cặp môi thâm xịt nở nụ cười thỏa mãn. Đáng thương thay, cặp môi ấy lại phô ra hàm răng đen kịt vì bám khói thuốc. “Chính xác như thế”, người đàn ông nói.
Tôi đã có ít nhiều ấn tượng. Sơn của Ponting tất nhiên nổi tiếng cả nước sau vài chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên ti vi, ở đó một con chó thật to đã được huấn luyện, cắn chiếc cọ sơn giữa hàm. Không biết sơn tốt cỡ nào nhưng càng quảng cáo nhiều thì có nhiều người biết đến. Quả thực con chó trông rất dễ thương. Người ta biết đến con chó nhiều hơn là thương hiệu hãng sơn.
“Thưa ông Ponting, có vấn đề gì ạ?”
Gương mặt người đàn ông tối sầm, ngay lập tức ông ta trông giống như một gã chủ hiệu thực phẩm ngoài chợ đang nổi lôi đình vì một thằng bé lấy cắp quả táo bỏ chạy, hơn là một ông chủ hãng sơn đáng giá bạc triệu.
“Thằng Adrian là con trai tôi”, người đàn ông nói.
Tôi gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Lại chuyện con trai, tôi lặng thinh, chuyện lớn rồi đây.
“Nó bỏ nhà đi rồi”, người đàn ông nói tiếp.
“Sao ông không báo cảnh sát”, tôi gợi ý.
“Tôi không thích”, người đàn ông nói,”Anh thấy đấy, nó mười chín tuổi rồi còn gì. Đủ trưởng thành để tự quyết định mọi chuyện”.
Tôi lại gật đầu, “Chắc là có nguyên nhân gì đó. Có lẽ là cãi nhau. Tôi cần biết rõ chi tiết hơn, thưa ông”.
Đó là một việc khó, giống như tìm kim đáy bể, nhưng ngẫu nhiên tôi có tấm hình chàng trai. Arian là chàng trai trẻ ở đại học, học khá xuất sắc năm thứ hai, có triển vọng tốt. Nhưng sau đó thì sự việc chuyển sang một hướng khác, “Nó đi chơi với đám du thủ du thực ấy”, tất nhiên điều ấy làm ông bố Ponting thất vọng. Có dấu hiệu anh chàng nghiện ma túy – Ồ, có 90% sinh viên chưa tốt nghiệp đều nếm qua thứ ấy bằng cách này hay cách khác, tôi chẳng hề ngạc nhiên vì điều ấy. Phải có “chuyện rắc rối” gì đó giữa những người trong gia đình như cha mẹ, anh chị em với nhau mà không tiện nói.
“Tình cờ”, ông Ponting nói, “tôi biết được chuyện. Chúng tôi cãi nhau kịch liệt và nó nó bỏ nhà đi mất. Chúng tôi tưởng là nó về trường đại học, nhưng tìm ở đấy không thấy nó. Từ đó đến nay tôi không nghe gì về nó nữa – chuyện ấy xảy ra cách đây 6 tuần”.
“Lần cãi vã sau cùng xảy ra khi nào, thưa ông?”
“Ồ, chắc anh cũng hiểu. Chúng tôi, bên nào cũng nói những điều mà thực tâm không muốn nói như thế”.
“Chính xác là nói gì?”, Tôi hỏi.
Ponting đằng hắng. Hình như người đàn ông này đang cân nhắc chuyện gì đó. “Adrian nói nó sẽ sống cuộc sống của riêng nó. Tôi bảo nó không sống nổi nếu không có tiền của tôi, cả đời nó tôi đã tốn bao nhiêu tiền của. Nó không công ăn việc làm, chẳng có năng lực gì thật sự, không thích kinh doanh, không biết vận dụng. Cái gì cũng không hết, tất nhiên sẽ bị đào thải. Nó nói nó có thể làm mọi việc mà không cần đến tôi, không cần tiền của tôi. Thế là nó bỏ đi”.
“Cậu ấy có tiền không?”, Tôi hỏi, “thẻ tín dụng chẳng hạn, hoặc vay mượn từ bạn bè, họ hàng, hoặc của mẹ?”
Ponting lắc đầu, “Con tôi, tôi biết. Nó chẳng có gì cả”.
“Ông nghĩ cậu ấy có khả năng đi đâu? Cậu ấy có thể ở nhờ với ai đó được chăng?”
“Chúng tôi đã cố tìm mọi chỗ. Bạn bè nó. Không có kết quả. Tôi nghĩ nó đang lang thang ngoài đường, có lẽ ở đâu đấy trong thành phố London này”.
“Thôi được, ông Ponting, tôi sẽ cố hết sức mình”.
Sau đó chúng tôi bàn thêm về điều kiện, mà người đàn ông mau chóng chấp nhận, sau đó bàn chi tiết về cách thức liên lạc, hỏi tên và địa chỉ bạn bè Adrian… và người đàn ông ký vào bản hợp đồng. Người đàn ông trao tôi một tấm hình của Adrian. Thoạt nhìn, tôi thấy ngay đó là một thanh niên có gương mặt tươi vui, mắt xám, tóc màu vàng nhạt, nhưng nụ cười – nếu nhìn kỹ chỉ là sự vui tươi giả tạo.
Ponting đứng dậy sắp sửa ra về thì tôi ngăn lại, “Còn một điểm cuối cùng thưa ông”, tôi hỏi, “lần cãi nhau cuối cùng thực chất là cãi về chuyện gì?”
Người đàn ông vờ vịt khoác tay cố né tránh câu hỏi, “Anh biết rồi đấy”, người đàn ông đáp, “toàn là chuyện gia đình thôi”.
“Tôi không biết gì cả”, tôi nói, “nhưng tôi cần biết. Có thể đó là yếu tố quan trọng”.
“Tôi không nhớ nữa”, người đàn ông đáp, ngay cả khi biết rằng ông ta nói dối tôi cũng không nài ép thêm.
Vậy là tôi có mặt ở đây, một mình lang thang trên phố, giống như một kẻ không nhà để tìm cái kẻ bất cần đời kia.
Có nhiều việc cần phải suy tính, đi đâu, làm gì, quan trọng hơn là, cái gì không nên làm. Tránh mặt ai, tìm ở những chỗ an toàn được mệnh danh là “khu vực xanh”, đơn giản chỉ có nghĩa là nơi không có những nguy cơ rình rập. Nơi tôi đang ngồi là một trong số những khu vực xanh ấy. Người người qua lại, một số người tỏ ra nghi ngờ, một số khác chỉ ngạc nhiên nhưng không có ác cảm. Tôi dò la một cách cẩn thận, vì không muốn để ai biết thực chất tôi đang tìm người. Tôi có tên, có mô tả nhân dạng, thời điểm xảy ra chuyện, dù vậy tôi vẫn không dùng đến tấm hình. Nhưng không ngon ăn chút nào. Luân Đôn là một chốn rộng lớn. Người tứ xứ tụ tập về đây và tôi chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng tôi có chút ít dấu vết. Có người thấy một gã thanh niên theo lời tôi mô tả ở khu vực công viên Finsbury – tôi phải giải thích rằng tôi nợ người ấy một ân huệ và muốn tìm gặp để đáp đền. Cứ hỏi bà “Trưởng lão Cái bang”, người này khuyên tôi như thế. Bà ta luôn có mặt ở công viên. Vì thế tôi mới xuất hiện ở nơi này, lười nhác dưới ánh mặt trời và nghĩ xem có cách nào kiếm sống dễ dàng hơn không thì lúc ấy…
“Chúa ơi! Matt! Chuyện gì xảy ra với anh vậy?”
Giọng nói của quá khứ, mặc dầu không phải là một quá khứ xa xôi cho lắm. Cái anh chàng Paul Massingham tóc hung, người tình cũ, tôi vẫn yêu, nếu buộc phải thừa nhận, trong tâm tưởng của tôi. Paul dáng dong dỏng cao, mảnh khảnh và đầy vẻ quyến rũ, còn tôi, trông chẳng ra hình dạng gì, chẳng khác nào một cái thùng rác trong ba tháng qua. Tệ thật! Biết ăn nói làm sao…
Và tôi lập tức nhìn thấy kẻ bám sau lưng Paul, hàng lô lốc những chiếc túi nhựa đựng thứ gì đó bên trong mà tôi không rõ – Bà “Trưởng lão Cái bang”, chính là người tôi đang mong gặp mặt – vì vậy tôi không cần phải đi đâu xa nữa. Tôi giải thích với Paul một cách mơ hồ.
“Vì công việc”, tôi lẩm bẩm nói qua kẽ răng, “Lâu lắm rồi anh chưa có cơ hội đụng vào ai cả”, lần này lời nói lớn hơn cố tình cho người đàn bà kia nghe.
“Vì cái gì?”, Paul hỏi.
“Vì em”, tôi nói lớn, “Em có thể ngồi đây một chút như bao nhiêu người khác… “, tôi nói nhưng mắt vẫn lơ đãng, “cho anh sờ một chút thôi”, tôi nói nhỏ.
Rõ ràng Paul tỏ ra sửng sốt, thậm chí là có thể nổi nóng vì thái độ sàm sở của tôi. Nhưng Paul ngẫm nghĩ gì đó rồi nói, “Anh phải tắm trước đã”, sau đó bỏ đi một nước, không quay lại nhìn lần nào. Lẽ ra tôi phải nhìn kỹ để đoán xem phản ứng của Paul thế nào nhưng tôi còn có việc phải làm.
Người đàn bà được mệnh danh là “Trưởng lão cái bang” – không ai biết tên thật của bà – đang ngồi xổm trên ghế dài kế bên tôi, lưng dựa ra sau thành ghế để ánh mặt trời chiếu lên mặt mình. Quanh người đàn bà này lủng lẳng những túi nhựa, màu đen, loại túi đựng rác. Bên trong chứa những tài sản của bà và bà trông giữ cẩn thận như sợ người khác cướp mất, sẵn sàng nhe hàm răng đen kịt gầm gừ đe dọa nếu có ai đến gần. Bên trong những chiếc túi ấy là tất cả những gì bà có được, từ việc lượm lặt ở các thùng rác nếu may mắn, những món đồ chơi gãy sứt, sách mất bìa, vật dụng bằng nhựa hư hỏng – những gì người ta bỏ đi đều là tài sản của bà.
Bà mặc bất cứ thứ gì có được, lớp trong lớp ngoài chồng lên nhau, làm bằng những loại vải bẩn thỉu không còn màu sắc ban đầu bây giờ cứ xin xỉn một màu giống như đồng phục, và cái mùi – không có gì so sánh được – cái mùi cũ kỹ giống như thứ mùi bạn ngửi thấy trong nhà thờ đầy bụi bẩn, ẩm thấp hoặc mùi của những quyển sách mục nát.
Bà ta chẳng hề phải lo lắng gì, ngoại trừ lo người ta sẽ đánh cắp tài sản quý giá của bà. Bà thường phải chịu cơn đói giày vò nhưng cô Sally Ann thỉnh thoảng cũng đến cho bà ít súp và bánh mì. Cái giá lạnh ban đêm bà có thể chịu được, nó là người bạn đồng hành mà bà không hề mong đợi. Sự thật là tôi ngồi kế bên người đàn bà này, bà ta đang ngồi xổm nhe răng gầm gừ đe dọa những kẻ không mời mà tới.
Người đàn bà đăm đăm nhìn cái chai trong tay tôi, ánh mắt người đàn bà tươi tỉnh tỏ ra dễ thương hơn.
“Tôi khát khủng khiếp”, người đàn bà nói. Cái giọng nói rời rạc và đùng đục cứ như là bà quên nói chuyện từ rất lâu.
Tôi trao cho bà chai rượu mạnh và bà tợp một ngụm lớn, rồi ngụm khác. Tôi tự hỏi không biết bên trong người bà có thứ gì chưa. Bà đưa chai rượu cho tôi. “Cứ giữ lấy mà uống”, tôi bảo mặc dù đó không phải là tính cách của tôi. Thỉnh thoảng có một cử chỉ hào hiệp thì cũng nên, nhưng rộng rãi quá đôi khi cũng khiến người khác nghi ngờ.
“Cảm ơn”, bà vừa ợ vừa nói cộc lốc, lộ vẻ ngờ vực, nhưng vẫn không nhận chai rượu. Người đàn bà nhìn tôi đăm đăm cố để hình dung cái gì đang ở trước mắt bà. “Tôi chưa từng thấy anh ở đây”, bà nói, nỗi ngờ vực gia tăng.
Tất nhiên tôi cũng chưa từng gặp bà ta, nhưng tôi biết khá nhiều về người đàn bà này. Mọi người đều biết bà “Trưởng lão Cái bang”, và theo lời kể lại, thì bà ta biết mặt hầu hết những người lui tới nơi đây. Đó là lý do vì sao tôi chọn đúng chiếc ghế đá này đúng vào thời điểm này, vì tôi biết rằng đó là chỗ bà ta thường lui tới.
“Tên tôi là Matt”, tôi nói.
“Ai hỏi tên anh”, người đàn bà nói, mặc dầu tôi thừa biết bà sẽ đem cất cái tên tôi vào một ngăn nào đó trong bộ não của bà “Ngủ ở đâu?”.
Thì ra, điều quan trọng hơn cả cái tên chính là chỗ ngủ qua đêm. “Trạm xe điện”, tôi đáp.
Người đàn bà nhìn tôi rồi nói “Vào khu nhà kho ngủ vẫn tốt hơn ở ngoài công viên Finsbury”.
Tôi nhận ra bà ta đang cho tôi một lời khuyên. Tôi gật đầu và cảm ơn rối rít nhưng trong lòng vẫn dấy lên nổi nghi ngại.
Một lúc sau tôi bỏ đi, sau khi mời bà uống thêm hai ngụm nữa.
Sực nhớ một điều, tôi quay lại hỏi “Gần đây bà có thấy Adrian không?”
Người đàn bà quệt tay lên miệng lau những giọt rượu còn sót lại. “Tên gì kỳ vậy”, người đàn bà nhìn tôi, có vẻ như để khẳng định hơn là thái độ phê phán. “Adrian già hay trẻ?”
“Anh chàng Adrian trẻ ấy”.
Người đàn bà ắt hẳn cũng có đôi điều thắc mắc trong đầu – hoặc ít ra tôi cũng đoán bà ta đang thắc mắc – dù vậy bà vẫn phun ra từng câu rời rạc “Có thấy, tuần rồi”, bà nói, “Đi ngược lên phía Bắc”.
Ở Reykjavik, tôi muốn điên cái đầu, hay ở Bắc Cực, hay một chỗ nào đó xa hơn. Cái ý nghĩ đó khiến tôi gần như chết cứng ngay lúc đó.
“Công viên Belsize”.
“Có phải cái anh chàng Adrian tóc vàng”, tôi kiểm chứng cho chắc ăn.
Người đàn bà gật đầu “Đúng đấy”, bà nói.
Tuyệt thật, tôi nghĩ thầm, trong khi đang đổ mồ hôi vì ánh nắng mặt trời. Tôi tự nhủ nếu có chút ít thông tin gì về lần cãi nhau cuối cùng của gia đình họ thì hay biết mấy. Không có chút đầu mối nào. Dù là gay hay đàn ông chính hiệu, thì một người sống lang thang cũng cần có khả năng và sự thích nghi mới có thể tồn tại được.
Công viên Belsize. Một ngọn đồi dốc bên ngoài trạm xe điện ngầm, phải đi ngược lên Hampstead Heath, rồi xuống thị trấn Camden. Một dãy phố các cửa tiệm đối diện nhau, cửa hàng rau quả, cửa hàng bán thức ăn chế biến sẵn, dịch vụ lữ hành, tiệm bánh ngọt. Tôi vào con phố mua một khúc xúc xích. Người phụ nữ sau quầy rõ ràng không mong muốn tôi bước vào cửa hiệu sạch sẽ của bà – cũng khó trách bà ấy, nhưng bà ấy bán hàng cho tôi mà mặt mày nhăn nhó, khó chịu…
Tôi bước ra ngoài tìm một chỗ ngồi – một chỗ dành cho khách bộ hành nghỉ chân. Một người đàn ông đứng tuổi – bề ngoài giống như một gã có “tâm hồn tự do” (ND: Dân bụi đời) – tôi đoán thế – đang ngồi đầu ghế bên kia. Người này mặc một áo choàng xám dài tới mắt cá chân, bên dưới là đôi giàu xăng – đan. Bên trong, những ngón chân đen xì trông giống như nhúng bùn, còn mắt cá xây xát. Tôi ăn khúc xúc xích, lấy chai rượu táo pha cồn trong túi, chuẩn bị trò chuyện, tôi đưa chai về hướng người ấy.
“Thứ này sẽ giết anh mất”, người đàn ông nói với vẻ hiểu biết. Đôi mắt nhìn tôi, cặp chân mày nâu nhíu lại. Trông người này không khỏe mạnh lắm. Nước da xanh mét trên gương mặt lấp lánh mồ hôi, một ngày nóng bức thế này mà người này vẫn mặc áo khoác ngoài dày cộp.
“Anh nói đúng”, tôi nói, “không ngại uống một ngụm chứ?”.
“Nếu muốn tự sát, thà rằng tôi về nhà chui đầu vào bếp ga còn hơn”.
Tôi không có ý định chỉ ra rằng, ga đốt không phải là thứ giết người tức thì, nó phải tràn ngập gian phòng cho tới khi không còn oxy rồi mới làm cho bạn chết ngạt. Rõ ràng người này không phải là dân bụi đời như cái vẻ bề ngoài. Tuy nhiên điều ấy vẫn có thể đúng, nếu như người đàn ông là “khách mối” của ghế đá này, nơi có thể ngắm nhìn mọi thứ diễn ra, hiểu biết và ít nhất là có chú ý sự việc diễn ra xung quanh.
“Xin lỗi ông”, tôi nói, “Ông có thấy đám con trai hò hẹn quanh đây không?”
Người đàn ông vênh mặt hỏi, “Cái gì khiến anh nghĩ tôi tới đây kiếm trai?”, Gã nói, một câu nói gai góc nếu không nghĩ đó là phản ứng tức giận của người đàn ông.
Tôi nhận ra mình đã phạm sai lầm. “Ồ không, tôi không có ý đó. Tôi đang tìm người. Có người nhìn thấy người tôi tìm ở công viên Belsize. Tên cậu ấy là Adrian”.
“Tôi không quen cái tên ấy. Người này trông thế nào?”
Tôi lấy tấm hình trong túi đưa cho người đàn ông. Người này rụt rè cầm lấy nhưng sau khi liếc sơ qua thì người đàn ông xăm xoi nhìn kỹ hơn, sắc mặt biến đổi và gần như muốn nhảy dựng lên. “Có đấy”, người đàn ông nói, “Tôi có thấy người này. Tôi nhớ màu tóc. Trông anh chàng không vui vẻ gì. Tôi nghĩ anh ta sợ thì đúng hơn. Thỉnh thoảng cứ ngoáy ra sau nhìn, cứ như là có ai theo dõi anh ta vậy”.
“Ông gặp lúc nào?”, Tôi hỏi.
“Sáng nay. Cách đây vài giờ, tôi đoán thế. Chắc là vào khoảng 7 giờ”.
“Cậu ấy đi đâu?”
“Lên đồi Rosslynl. Đi về phía Hampstead”. Người đàn ông hất hàm về bên phải ra dấu.
Tôi định đứng lên nhưng chợt nghĩ ra một điều, “và ở chỗ đó sao?”, Tôi hỏi.
“Cái gì ở đó?”
“Người theo dõi cậu ấy đó?”
“Tôi không biết nhiều như thế đâu. Mà cũng không thấy ai cả”, người đàn ông dừng lại một chút rồi nói tiếp, “ngoại trừ anh”.
Tôi mỉm cười, đứng dậy.
“Ừ, có lẽ tôi cần uống một chút”, người đàn ông nói.
Thấy tay người đàn ông run run, tôi đưa chai rượu cho người này.
Đồi dốc, trèo lên ngọn đồi làm tôi mướt mồ hôi. Tôi đi qua một bệnh viện ở phía tay phải, đi theo con đường xuống bên dưới. Vừa qua khu Flask Walk thì thấy có hai người đàn ông dựa lưng vào tường bên ngoài quán rượu “The Flask”. Hai người này tay cầm hai ly bia lớn, trông phát thèm. Trông họ vô hại nhưng cũng khó bắt chuyện.
“Xin chào”, tôi nói, “tôi đang tìm người này, nếu có thấy vui lòng chỉ giúp”, tôi đưa tấm hình cho họ xem.
Họ nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ, đây không phải là lần đầu tiên, ước gì tôi về nhà được để thay đổi cái bộ dạng “ma cà bông” của mình để trở thành một quý ông lịch thiệp, bây giờ ai nhìn tôi mà không ngờ vực mới lạ.
“Tìm để làm gì?”, Một người hỏi.
“Ê này, không phải là cái thằng hỏi anh mấy giờ rồi chứ?”, Người kia nói, rõ ràng có ý biếm nhẽ, “còn anh thì bảo tự mua đồng hồ mà xem đấy sao?”.
“Xin cảm ơn các ngài”, tôi nói với vẻ thản nhiên để che dấu giọng mỉa mai và đi ngay lập tức, theo sau là tiếng la ó, chửi rủa “Đồ dâm đãng, lũ đồng dâm khốn nạn”. Nhưng lời chửi rủa ấy không có ý đe dọa và không ai muốn đuổi theo.
Đoạn bên trên con đường là quán rượu “William đệ tứ” nhưng tôi bỏ qua. Trông chỗ đó cũng thiếu lịch sự và e rằng tôi cũng không nhịn được. Tôi cố nhìn vào sân nơi mấy tay bợm nhậu đang ngồi bàn văng tục ồn ào. Adrian, người tôi tìm chắc không ở trong số những người kém văn hóa này.
Tôi rẽ phải tại trạm xe điện Hampstead, ngẫu nhiên đây là chỗ sâu nhất trong toàn bộ hệ thống xe điện ngầm ở Luân Đôn, và dẫn tới đường Heath bên trên, hơi dốc một chút, tuyến đường xe điện ngầm sẽ chạy tới hồ Round, lâu đài Jack Straw để lên đường Health.
Thông tin truyện | |
---|---|
Tên truyện | Hè về |
Tác giả | Chưa xác định |
Thể loại | Truyện sex gay |
Phân loại | Truyện đam mỹ, Truyện đồng tính |
Ngày cập nhật | 01/10/2021 00:53 (GMT+7) |